Chân kính là một bộ phận đặc biệt trong chiếc đồng hồ. Cùng Erawatch tìm hiểu một số điểm thủ vị về chân kính đồng hồ trong bài viết dưới đây nhé.

Chân kính hay Jewel là một bộ phận hết sức quan trọng trong những chiếc đồng hồ cơ khí, được ra đời từ thế kỷ 18. Jewel có nghĩa là đá quý cái tên đã nói lên vật liệu tạo ra chân kính chính kim cương, Saphire, Ruby hay đá thạch anh. Nhưng chúng không chỉ có tác dụng trang trí cho những bộ máy đồng hồ mà còn làm tăng độ chính xác, độ bền cho những cỗ máy thời gian.

Chân kính là gì?

Từ gốc Jewel có nghĩa là đá quý, dùng để nhắc đến vật liệu chính làm ra chân kính, đồng thời thể hiện chân kính đồng hồ là một bộ phận đẹp và khá có giá trị, có tính trang trí và tăng đẳng cấp của đồng hồ. Còn từ chân kính lại có xuất phát từ Trung Quốc, có nghĩa là chân bằng kính.

chân kính (jewels) trong bộ máy đồng hồ

Tác dụng của chân kính trong bộ máy

Các chi tiết trong chiếc đồng hồ đeo tay đều rất nhỏ bé và tinh xảo, có những chi tiết chỉ nhỏ như sợi lông mi, hầu hết đều làm từ kim loại. Giống như mọi cỗ máy khác, giữa các chi tiết cần được “bôi trơn”, bởi lẽ kim loại ma sát dễ khiến các bộ phận bên trong đồng hồ bị tổn thương và chạy không chính xác. Kể cả dùng dầu, tại các điểm chịu lực và hao mòn nặng vẫn cần một giải pháp giảm thiểu ma sát để đồng hồ có được tuổi thọ cao hơn và hoạt động chính xác hơn, phòng tránh việc hư hỏng các chi tiết dẫn đến không thể phục hồi. Vì thế, những vòng đệm làm từ đá quý lần đầu tiên được sử dụng trong những chiếc đồng hồ vào năm 1704 do Nicolas Fatio de Duillier, Peter Debaufre, và Jacob Debaufre khởi xướng. Họ cũng là những người đã nhận bằng sáng chế cho phát minh tuyệt vời này.

Xem thêm  Dây đồng hồ kim loại Hà Nội- Ưu điểm vượt trội của Wenger

Vai trò của chân kính có thể khái quát như sau:

– Giảm đi sự ma sát giữa các chuyển động để tăng độ chính xác

– Hệ quả của giảm đi ma sát chính là tăng tuổi thọ của các bộ phận bị lực tác động giúp đồng hồ bền hơn.

– Trang trí cho bộ máy của đồng hồ

– Tăng giá trị cho đồng hồ

Vật liệu làm chân kính đồng hồ

Trong lịch sử, ngành đồng hồ, đã có rất nhiều vật liệu được dùng để làm chân kính. Từ kim cương, đá quý, đá Sapphire, ngọc thạch lựu, ruby, thạch anh, … chủ yếu là những vật liệu ít hao mòn, độ cứng cao, trơn trượt khi tiếp xúc lẫn nhau và tiếp xúc với các bộ phận kim loại trong máy đồng hồ. Tùy thuộc vào đẳng cấp đồng hồ và phối hợp màu sắc, người ta sẽ chọn loại vật liệu phù hợp, nhưng tựu chung lại giá thành không quá đắt đỏ. Những loại vật liệu ban đầu như kim cương, ngọc nay chỉ dùng cho những mẫu đồng hồ đắt tiền. Còn phần lớn đồng hồ đều dùng nguyên liệu nhân tạo như Sapphire tổng hợp và Ruby nhân tạo do Auguste Verneuil phát minh. Những thương hiệu, nhà sản xuất đồng hồ rẻ tiền, đồ giả, đồ nhái, … còn dùng đến cả thủy tinh pha màu có mọi tính chất đều không đạt chuẩn để làm chân kính.

Các loại chân kính đồng hồ

Xem thêm  Mẫu đồng hồ Rado nam mặt vuông nào nổi tiếng nhất hiện nay?

Thông thường dựa theo vị trí và tác dụng, chúng ta có thể phân thành các loại chân kính sau:

1) Chân kính tròn có lỗ xuyên tâm (Hole Jewels): hình tròn, dẹt, ở giữa được khoan lỗ. Loại này được dùng để gắn vào các trục bánh răng xoay có vận tốc quay nhỏ, không yêu cầu cao về độ sai số và mức chịu lực tác động từ các phương vuông góc với trục quay. Kích thước lỗ khoan tương ứng với kích thước trục.

2) Chân kính tròn không có lỗ (Cap Jewels): chân kính có hình tròn, dẹt, ở giữa không khoan lỗ. Loại này thường được đặt áp vào 2 đầu trục quay có yêu cầu cao về độ sai số, có vận tốc quay lớn, chịu ảnh hưởng nhiều bởi lực tác động dọc trục.

3) Chân kính dạng phiến, vuông chữ nhật (Pallet Jewels): chân kính có hình viên gạch được gắn trên những điểm bị tác động, va đập theo chiều ngang như như hai đầu ngựa, trượt cò khoá, bánh thoát (còn gọi bánh xe gai).

4) Chân kính dạng con lăn (Roller Jewels): có hình dạng hình trụ, chỉ được gắn trên bệ bánh lắc để ngựa “đá”, điểm bị tác động va đập kiểu trượt (chiều ngang).

5) Chân kính bảo vệ sốc (Shock Protection Jewels): không có hình dạng cụ thể, đây là một loại chân kính nằm chèn giữa chân kính khác và bộ phận nào đó, ngăn không cho làm vỡ chân kính cần bảo vệ khi đồng hồ bị chấn động mạnh.

Bao nhiêu chân kính là đủ?

Nói chính xác, chân kính chỉ cần thiết ở những nơi xảy ra sự ma sát, tác động của lực, tuyệt đối không phải là càng nhiều thì càng tốt, độ chính xác và độ bền của đồng hồ chỉ có thể tăng hết mức với số chân kính tối đa cho từng loại  như sau:

Xem thêm  Đồng hồ L’duchen có tốt không – dân sành sỏi nói gì?

– 4 chân kính cho đồng hồ pin với mặt hiển thị kim

– 6-7 cho đồng hồ pin với mặt hiển thị kim nhiều chức năng

– 17 cho đồng hồ cơ lên dây cót

– 21 cho đồng hồ cơ tự động

– 23 cho đồng hồ cơ có hai trống dự trữ năng lượng

– 25-27 cho đồng hồ cơ đa năng

– Có thể hơn 40 chân kính cho những chiếc đồng hồ cực kỳ phức tạp

Đồng hồ 40 chân kính

Chiếc Shuangling Double Rhomb với 40 chân kính

Để tránh chân kính bị lạm dùng vào những mục đích không liên quan đến các chức năng của đồng hồ, năm 1974 Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế (ISO) đã phối hợp với tổ chức tiêu chuẩn công nghiệp đồng hồ Thụy Sĩ (NIHS): Normes de l’Industrie Horlogère Suisse công bố tiêu chuẩn, ISO 1112. Tiêu chuẩn này nghiêm cấm các nhà sản xuất, thương hiệu quảng cáo chân kính không có tính năng. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp lách luật bằng cách tăng số lượng loại 1, loại 2 vào những nơi không cần lắp chân kính. Dĩ nhiên, lách luật tăng số lượng như thế này chưa bao giờ được chứng minh rõ ràng là tăng độ bền hay độ chính xác. Yếu tố chân kính đôi khi được các hãng sử dụng để PR, nên khách hàng hãy là người tiêu dùng thông thái để lựa chọn mẫu đồng hồ phù hợp với mình

.
.
.
.